Quốc hiệu Việt Nam qua các thời kỳ lịch sử (Kỳ 27)

04/06/2023 06:09

Theo dõi trên

Trân trọng giới thiệu tiếp "Quốc hiệu Việt Nam qua các thời kỳ lịch sử" của PGS TS Cao Văn Liên do Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia ấn hành.

b1gionevo-a-1685779746.jpg

Hội nghị Giơnevơ (Thụy Sỹ) năm 1954 bàn về lập lại hòa bình ở Đông Dương (Ảnh tư liệu)

 

Kỳ 27                                                                            

Do thất bại ở Điện Biên Phủ, phía Pháp phải ký hiệp nghị Giơnevơ ngày 20 tháng 7-1954. Hiệp định gồm các nội dung chính như sau :

          1. Các nước tham dự hội nghị cam kết tôn trọng các quyền dân tộc cơ bản của nhân dân Việt Nam,  Lào, Campuchia, không can thiệp vào công việc nội bộ của ba nước Đông Dương .

          2.  Hai bên cùng thực hiện ngừng bắn, tập kết chuyển quân và chuyển giao khu vực, lấy vĩ tuyến 17 (sông Bến Hải-Vĩnh Linh-Quảng Trị) làm giới tuyến quân sự tạm thời cùng với một khu phi quân sự ở hai bên giới tuyến. Giới tuyến quân sự có tính chất tạm thời, không thể coi là ranh giới chính trị và lãnh thổ .

          3.  Cấm đưa quân đội và nhân viên quân sự, vũ khí nước ngoài vào ba nước Đông Dương. Các nước Đông Dương không được gia nhập khối liên minh quân sự và không được để các nước dùng lãnh thổ của mình để gây lại chiến tranh hoặc để phục vụ cho mục đích xâm lược .

          4.  Việt Nam sẽ thực hiện thống nhất bằng cuộc tổng tuyển cử tự do cả nước, được tổ chức vào tháng  7 -1956 dưới sự giám sát của Uỷ ban quân sự quốc tế (Ân Độ, Ba Lan, Ca nađa) do Ấn Độ làm Chủ tịch .

          5 .  Trách nhiệm thi hành Hiệp định Giơnevơ thuộc về những người ký hiệp định và những người kế tiếp nhiệm vụ của họ .

         Hiệp định Giơnevơ có ý nghĩa quan trọng đối với ba nước Đông Dương. Hiệp định là văn bản pháp lý quốc tế kết thúc cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, lập lại hoà bính ở ba nước Đông Dương, làm thất bại âm mưu kéo dài và mở rộng chiến tranh của giới hiếu chiến Pháp-Mỹ. Công nhận độc lập thống nhất toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam, Lào và Camphuchia, thoát khỏi sự thống trị của chủ nghĩa thực dân Pháp, trở thành những quốc gia độc lập. Hiệp định Giơnevơ là sự thắng lợi của đường lối kết hợp đấu tranh quân sự, chính trị ngoại giao. 

         Điện Biên Phủ là trận quyết chiến chiến lược đè bẹp ý chí xâm lược của thực dân Pháp. Nếu so sánh lực lượng giữa ta và Pháp trên phạm vi Đông Dương sau điện Biên Phủ thì ta có khả năng giải phóng cả nước, giải phóng toàn bộ Đông Dương trước sự sụp đổ hoàn toàn của Pháp trên khắp các chiến trường. Nhưng tại Giơnevơ vấn đề Đông Dương đã trở thành vấn đề quốc tế, trở thành so sánh thế lực của hai hệ thống xã hội chủ  nghĩa và tư bản chủ nghĩa  trên phạm vi thế giới. Do nhiều lý do mà Giơ ne vơ có nhiều hạn chế, chưa phản ánh hết tầm cỡ chiến thắng do Điện Biên Phủ mang lại. Như Hiệp định chấp nhận hai chính  quyền Việt Nam dân chủ cộng hoà và chính quyền bù nhìn Bảo Đại ở miền Nam, chia cắt Việt Nam, giải quyết vấn đề quân sự đầu tiên, tách rời việc giải quyết vấn đề Việt Nam với vấn đề Lào, Campuchia thành ba vấn đề riêng biệt, không chấp nhận ý kiến của Việt Nam dân chủ cộng hoà lấy vĩ thuyến 13 làm giới tuyến quân sự tạm thời và yêu cầu của Việt Nam 6 tháng phải tổ chức tổng tuyển cử tự do cho cả  Việt Nam, Lào và Campuchia, yêu cầu Lào và Campuchia phải có hai vùng tập kết. Do đó “Giải pháp Giơnevơ không phản ánh đầy đủ những thắng lợi của nhân dân ta trên chiến trường. Vì thế nó đã ngăn cản nhân dân ba nước Việt Nam, Lào và Campuchia giành thắng lợi hoàn toàn”. (BNCLSĐTƯ-Lịch sử Đảng cộng sản Việt Nam-NXB Sự thật. H. 1982. Tr 726 . ).

         Tuy nhiên với Điện Biên Phủ và với Giơnevơ, nhân dân Đông Dương đã đánh bại cuộc xâm lược kiểu cũ của thực dân Pháp. 50 vạn quân viễn chinh nhà nghề của Pháp bị tiêu diệt và tan rã, tiêu tốn 3.000 tỉ Frăng và 2,5 tỉ USD vay của Mỹ. Chín năm chiến tranh Pháp đã thay đổi 8 tư lệnh quân đội ở Đông Dương, 20 lần chính phủ Pháp sụp đổ (tính đến tháng 3-1954). Thất bại này buộc thưc dân Pháp phải thừa nhận độc lập chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của ba nước Đông Dương. Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, nhân dân ta đã bảo vệ, phát triển được thành quả của cách mạng tháng Tám, bảo vệ đựơc chính quyền cách mạng, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Bắc, miền Bắc đi lên cách mạng xã hội chủ nghĩa. Thắng lợi của nhân dân ta trong cuộc kháng chiến chống Pháp đã giáng đòn mạnh mẽ, mở đầu cho sự sụp đổ của chủ nghĩa thực dân cũ, cổ vũ phong trào giải phóng dân tộc ở châu Á, châu Phi, dấy lên một cơn bão táp cách mạng có tính chất phản ứng dây chuyền ở hai châu lục này, làm sụp đổ hoàn toàn hệ thống thuộc địa kiểu cũ. Vào những năm 60 của thế kỷ XX gần một trăm quốc gia độc lập ở châu Á-châu Phi ra đời làm cho bộ mặt chính trị của hành tinh thay đổi .

         Nguyên nhân thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Pháp: Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Thực dân Pháp là do cuộc kháng chiến của ta đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Đảng đã vạch ra đường lối chính trị, quân sự đúng đắn, đường lối chính trị đoàn kết toàn dân, đường lối kháng chiến toàn dân, toàn diện, trường kỳ tự lực cánh sinh, tranh thủ sự ủng hộ đoàn kết quốc tế. Đường lối trên phù hợp với qui luật của một cuộc chiến tranh chính nghĩa. Trên cơ sở đó, ta mới triển khai được chiến lược chiến tranh, nghệ thuật quân sự và các chiến dịch để tiêu diệt lực lượng kẻ thù. Đường lối chiến tranh đúng đắn đó được các nhà quân sự lỗi lạc của dân tộc như Hồ Chí Minh, Võ Nguyên Giáp, triển khai thực hiện một cách linh hoạt, tài tình. Kháng chiến chống thực dân Pháp là một cuộc chiến tranh bảo vệ tổ quốc, tiếp tục cuộc cách mạng dân tộc dân chủ bằng hình thức đấu tranh vũ trang là chủ yếu. Đó là một cuộc chiến tranh chính nghĩa nên đã huy động được toàn dân kháng chiến. Toàn dân ta đã hy sinh vô bờ bến, đóng góp sức người, sức của cho cuộc kháng chiến, một lòng tin và đi theo Đảng, tin và đi theo lãnh tụ Hồ Chí Minh, tin tưởng vào thắng lợi cuối cùng. Hàng vạn chiến sĩ vô danh, hữu danh đã anh dũng chiến đấu, hi sinh trên con đường đi đến vinh quang thắng lợi. Thắng lợi còn là do sức mạnh của tình đoàn kết chiến đấu của ba nước Đông Dương, tình đoàn kết này đã tạo nên sức mạnh chống kẻ thù chung. Thắng lợi của nhân dân ba nước Đông Dương không tách rời sự ủng hộ giúp đỡ của nhân dân yêu chuộng hoà bình trên thế giới, của nhân dân tiến bộ và Đảng cộng sản Pháp, của nhân dân và các Đảng cộng sản ở các nước xã hội chủ nghĩa, đặc biệt là sự giúp đỡ to lớn của nhân dân Liên Xô, Trung Quốc. Là tháng lợi của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng quân sự Mác xít được Đảng ta và Hồ Chí Minh vận dụng một cách sáng tạo vào hoàn cảnh cụ thể của nước ta. Đó là thắng lợi của chủ nghĩa yêu nước của toàn dân, của truyền thống quân sự dân tộc, của tư tưởng quân sự Hồ chí Minh trong thời đại mới .

         Kinh nghiệm của cuộc kháng chiến chống Pháp hết sức phong phú, đó là kinh nghiệm chăm sóc sức dân để đoàn kết toàn dân, để toàn dân ủng hộ chính quyền thì mới tạo nên sức mạnh, vì chiến tranh tuân theo một qui luật khắc nghiệt là mạnh được yếu thua, là sự thử thách toàn diện đối với một quốc gia, một chế độ. Từ đoàn kết toàn dân mới phát huy cao độ tinh thần yêu nước, mới phát động được chiến tranh nhân dân. Chiến tranh nhân dân là một trong những kinh nghiệm quí báu viết bằng máu của cuộc kháng chiến chống Pháp. Đó là kinh nghiệm toàn dân đánh giặc, ở trên lĩnh vực sản xuất nào, công tác nào cũng là mặt trận đánh giặc mà trước hết tiến hành nhịp nhàng cân đối trong phạm vi cả nước chiến tranh chính qui kết hợp với chiến tranh du kích, xây dựng vững mạnh và phối hợp tác chiến giữa ba thứ quân: Bộ đội chính qui, bộ đội địa phương và dân quân du kích. Xây dựng Đảng vững manh, xây dựng một chế độ vững mạnh là điều kiện tiên quyết bảo đảm cho một cuộc kháng chiến thắng lợi .

  (Còn nữa)

    CVL

 

Bạn đang đọc bài viết "Quốc hiệu Việt Nam qua các thời kỳ lịch sử (Kỳ 27)" tại chuyên mục Nghiên cứu. | Hotline: 08.4646.0404 | Email: toasoan@vanhoavaphattrien.vn