Phong trào nông dân Tây Sơn và Đại Đô đốc Tây Sơn Bùi Hữu Hiếu (Kỳ 8)

PGS TS Cao Văn Liên

17/07/2023 06:07

Theo dõi trên

Trân trọng giới thiệu tiếp với bạn đọc cuốn sách “Phong trào nông dân Tây Sơn và Đại Đô đốc Tây Sơn Bùi Hữu Hiếu” của PGSTS Cao Văn Liên, do NXB Thanh Niên ấn hành.

Kỳ 8

Năm 1558, Nguyễn Hoàng khi đó mới 34 tuổi được phong làm trấn thủ Thuận Hoá. Hoàng đã đem theo nhiều nghĩa dũng đồng hương Thanh Hoá vào lập nghiệp đất Miền Trong. Từ năm 1558 đến năm 1619 là thời kỳ Nguyễn Hoàng và sau đó con là Nguyễn Phúc Nguyên ra sức xây dựng phát triển kinh tế, mở mang bờ cõi Miền Trong, xây dựng thực lực để trở thành một giang sơn riêng biệt. Mặt khác vẫn thần phục vua Lê - chúa Trịnh. Từ năm 1619 trở đi khi thực lực đã mạnh,  họ Nguyễn không phục tùng Lê-Trịnh nữa và bắt đầu cuộc nội chiến lâu dài khốc liệt giữa hai tập đoàn phong kiến lớn Trịnh-Nguyễn. Năm 1619 Trịnh Tùng đem quân chinh phạt họ Nguyễn mở đầu cho cuộc nội chiến. Từ năm 1627 đến năm 1672 hai bên đã 7 lần đánh nhau. Các vùng Quảng Bình, Nghệ An quanh năm bị biến thành bãi chiến trường núi xương,  sông máu, gây bao nhiêu tang tóc đau thương cho nhân dân hai miền Nam-Bắc. Cuộc nội chiến kéo dài hàng trăm năm không phân thắng bại, cuối cùng hai bên phải lấy sông Gianh (Quảng Bình) làm ranh giới: phía Bắc trở ra gọi là Đàng Ngoài, phía nam trở vào gọi là Đàng Trong. Sự thống nhất toàn vẹn lãnh thổ của đất nước bị các tập đoàn phong kiến phá vỡ vì quyền lợi ích kỷ của mình. Trong suốt thế kỷ XVII các chúa Nguyễn nhân cơ hội quốc gia Chiêm Thành ở phía Nam suy vong, tiến hành mở rộng lãnh thổ từ Quảng Ngãi xuống Bình Thuận. Phía nam Bình Thuận là Thuỷ Chân Lạp của vương quốc Chân Lạp cũng đang trên đường suy vong tạo ra khoảng trống quyền lực,  đất đai hoang hoá. Các chúa Nguyễn tiếp tục cho cư dân tiến vào phía Nam khai hoang phục hoá mở rộng lãnh thổ Đàng Trong đến Mũi Cà Mau-Rạch Giá vào cuối thế kỷ XVII.

Sang thế kỷ XVIII chế độ phong kiến Việt Nam bước vào cuộc khủng hoảng toàn diện và ngày càng sâu sắc.  Ở Đàng Ngoài,  tầng lớp cầm quyền ngày càng hủ bại. Mọi chính sách của nhà nước đều chỉ nhằm một mục đích duy nhất củng cố vơ vét quyền lợi cho tập đoàn thống trị, vì thế các chính sách đều mang tính chất phản động. Phủ Chúa nắm toàn bộ quyền lực, tiêu phí không biết bao nhiêu tiền bạc,  công sức của nhân dân vào xây cất các công trình nguy nga tráng lệ, vào các cuộc ăn chơi sa đoạ, tuần du tốn kém. Toàn bộ quan lại từ Trung ương đến địa phương vùi đầu trong cuộc sống xa hoa, bon chen, truỵ lạc, vô cảm trước sự đau khổ cùng cực của nhân dân. Quan lại thì ra sức xu nịnh cấp trên để được bao che, dung túng, bòn rút của nhà nước,  của nhân dân để làm giầu. Tệ hoạn quan lộng hành, tệ mua bán bằng cấp, tệ mua quan bán chức được nhà nước công khai chấp nhận như một thể chế lựa chọn nhân sự vào bộ máy chính quyền. Tệ tham ô, hối lộ nhũng nhiễu đục khoét nhân dân được nhà nước làm ngơ và thừa nhận. Cha ông ta nói; “Nhà dột từ nóc”. Một nhà nước khi triều đình trung ương đã hủ bại thì quan lại địa phương cường hào ác bá mặc sức hoành hành. Chúng thâu tóm quyền hành, tác oai tác quái, bòn rút của cải, tiền bạc, cướp đoạt những mảnh đất cuối cùng của nông dân. Chúng bày đặt lắm mưu,  nhiều kế độc ác gian xảo,  vu oan giáng hoạ hãm hại người lương thiện, oan khốc tầy trời mà không biết kêu ở nơi nào cho thấu.

Chính trị mục nát đã làm cho đạo đức, kỷ cương,  đạo lý của Nho giáo sụp đổ. Những nguyên lý trong kinh điển Nho gia chỉ còn là những lời nói rỗng tuếch lừa bịp,  mị dân. Bộ máy nhà nước do mua quan bán tước trở nên cồng kềnh đông đúc mà không được lương bổng hoặc lương bổng thấp nên càng ra sức đục khoét nhân dân. Như ở Đàng Trong một xã có đến 20 xã trưởng. Chế độ Trịnh -Nguyễn tăng thuế má lên một cách khủng khiếp. Nhà nước ước tính số chi trước để định ra mức thu, bất chấp những khó khăn thực tế, những nổi cùng khổ của nhân dân. Ví như thuế đinh chỉ cần kiểm tra dân số một lần và ấn định mức thu lâu dài cho các xã. Thành thử những người còn sống, những người ở lại phải đóng cả thuế cho những người đã chết, những người bỏ làng phiêu bạt.

Các chính quyền Trịnh -Nguyễn khi đó với chính sách “ức thương” phản động bóp chết tất cả những mầm mống của kinh tế hàng hoá: Độc quyền thủ công nghiệp,  đánh thuế rất nặng các nghề thủ công tư nhân khiến họ bị vùi dập không phát triển lên được, không chuyến dịch được cơ cấu thủ công nghiệp sang kinh tế hàng hoá thị trường. Trong thương mại đối ngoại,  các tập đoàn phong kiến ra sức bế quan toả cảng, khước từ giao lưu buôn bán với các nước tư bản phương Tây như Hà Lan, Pháp...  khi đó có mặt ở Việt Nam. Chính sách bế quan toả cảng mù quáng, bảo thủ của các chính quyền phong kiến đã giam hãm đất nước trong vòng lạc hậu, bỏ qua vận hội, không tận dụng được những yếu tố bên ngoài để phát triển theo chiều hướng tiến bộ. Chính sách phản động này đã đưa đến kết quả mất nước vào nửa sau thế kỷ XIX khi bị thực dân Pháp tấn công xâm lược.

Như vậy qua 500 năm xây dựng và phát triển, vào thế kỷ XVI chế độ phong kiến Việt Nam bắt đầu suy thoái và vào thế kỷ XVIII bước vào cuộc khủng hoảng toàn diện trên tất cả các lĩnh vực chính trị,  xã hội, kinh tế, tư tưởng, đạo đức. Các tập đoàn phong kiến chỉ biết quan tâm đến quyền lợi của bản thân gia đình và dòng họ, gây nội chiến chiến tranh tranh giành quyền lực, phá vỡ sự thống nhất đất nước, cam tâm bóc lột nhân dân một cách tàn bạo để ăn chơi sa đoạ,  đẩy nhân dân vào con đường khổ nhục,  đói khát,  mất ruông đất nhà cửa, phiêu tán,  chết chóc do đói khổ,  chiến tranh. Chính sách phản động của nhà nước phong kiến đã triệt tiêu nền kinh tế hàng hoá thị trường, những nhân tố kinh tế tư bản chủ nghĩa không ra đời được, tức là Việt Nam vào thế kỷ XVIII vẫn không có những nhân tố mới để đưa xã hội phát triển theo chiều hướng tiến bộ chung của thời đại khi đó. Việt Nam vẫn bị giam hãm trong vòng xã hội phong kiến đã cực kỳ thối nát. Nguyên nhân khủng hoảng của chế độ phong kiến nằm ngay trong tư tưởng ích kỷ của giai cấp cầm quyền, thói tham lam vô hạn độ đã làm cho chúng không còn tư tưởng vì dân vì nước, quên mất đạo đức thánh hiền, quên mất nguyên lý “Dân vi bản”. Trong các thế kỷ này, tư tưởng cá nhân, dòng họ, tập đoàn chi phối toàn bộ các hoạt động, các chính sách của nhà nước. Cả dân tộc và nhân dân là nạn nhân của chính sách ích kỷ ấy của giai cấp cầm quyền.

(Còn nữa)

CVL

Bạn đang đọc bài viết "Phong trào nông dân Tây Sơn và Đại Đô đốc Tây Sơn Bùi Hữu Hiếu (Kỳ 8)" tại chuyên mục Nghiên cứu. | Hotline: 08.4646.0404 | Email: toasoan@vanhoavaphattrien.vn