Ngân vang mãi giai điệu Tổ quốc (phần 8)

Phạm Việt

22/08/2022 15:35

Theo dõi trên

Đoàn xe của chúng tôi chạy đều đều, cho tới khi đến vùng Nghệ - Tĩnh. Đây là vùng chiến tranh phá khoại khốc liệt. Đâu đâu cũng thấy cảnh bom đạn tàn phá. Nhưng, cũng chính tại nơi đây, những điệu hò ví dặm và những ca khúc cách mạng luôn luôn ngân vang, át tiếng bom đạn, tưới mát tâm hồn chúng tôi, làm đôi mắt chúng tôi dịu lại trước khung cảnh chiến tranh tàn ác.

bia-ngan-vang-mai-giai-dieu-to-quoc-1660572196.jpg
Chú thích ảnh

 

Và rồi, đúng ngày 30 tháng 4 năm 1968, chúng tôi lên đường đi chiến trường. Bài ca “Giải phóng miền Nam” vang lên khắp nơi. Một đoàn xe đi trước, vang lên giai điệu ca khúc này qua tiếng kèn Ac mô ni ca của một chiến sĩ nào đó. Rồi xe chúng tôi chuyển bánh trong đêm. Rừng mịt mùng. Đêm đen kịt. Muôn ngàn ánh đom đóm lập lòe khắp không gian. Vắng lặng. Mỗi người chìm vào suy tư của riêng mình. Nhưng đột nhiên, một giọng nói cất lên: Hành quân xa nào! Thế là bài hát của thế hệ cha anh thời chống Pháp, hôm nay vang lên trong đoàn quân Nam tiến chống Mỹ:

“Hành quân xa dẫu qua nhiều gian khổ

Vai vác nặng ta đã đổ mồ hôi

Mắt ta sáng chí căm thù bảo vệ đồng quê ta tiến bước

Đời chúng ta đâu có giặc là ta cứ đi.

 

Dù đôi chân qua những chặng đường có mỏi

Vẫn bước dồn ta hãy hỏi vì đâu?

Mấy năm trước, sống cơ cực vì bọn giặc kia nó áp bức

Đời chúng ta đâu có giặc là ta cứ đi.

 

Bọn xâm lăng kia nó gây nhiều đau khổ

Kìa đồng bào đang mắt đỏ chờ ta

Với giai cấp chỉ căm thù chờ đợi lệnh truyền ra ta quyết chiến

Đời chúng ta đâu có giặc là ta cứ đi...”

Bối cảnh xã hội đã khác. Cách thức hành quân đã khác. Nhưng tinh thần của cha anh xưa kia và chúng tôi hôm nay hòa hợp làm sao: “Mắt ta sáng chí căm thù bảo vệ đồng quê ta tiến bước /Đời chúng ta đâu có giặc là ta cứ đi.” Vâng, chúng tôi đang đi tới vùng có giặc để bảo vệ quê hương, đất nước của mình. Giai điệu hào hùng và ca từ khỏe khoắn của “Hành quân xa” như chưa bao giờ dừng lại, mà liên tục được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác với thông điệp về tình yêu quê hương, thương đồng bào, căm thù giặc, dám hi sinh cho Tổ quốc!

Đoàn xe của chúng tôi chạy đều đều, cho tới khi đến vùng Nghệ - Tĩnh. Đây là vùng chiến tranh phá khoại khốc liệt. Đâu đâu cũng thấy cảnh bom đạn tàn phá. Nhưng, cũng chính tại nơi đây, những điệu hò ví dặm và những ca khúc cách mạng luôn luôn ngân vang, át tiếng bom đạn, tưới mát tâm hồn chúng tôi, làm đôi mắt chúng tôi dịu lại trước khung cảnh chiến tranh tàn ác.

Một buổi chiều, đoàn chúng tôi phải dừng lại vì đoạn đường phía trước bị bom đào tơi tả. Chúng tôi vào một ngôi làng nằm ở phía phía Tây quốc lộ 1. Cũng bất ngờ, là ngay tối hôm đó, chúng tôi được dự một buổi sinh hoạt văn nghệ vô cùng lý thú, do đoàn thanh niên địa phương tổ chức, mà chúng tôi vừa là khán giả, vừa là diễn viên. Một cô gái, tuổi cỡ 20, lên hát bài ví đò đưa:

 “Anh đến tìm hoa thì hoa đã nở

Anh đến tìm đò, đò đã sang sông

Anh đến tìm em, em đã lấy chồng

Em yêu anh như rứa có mặn nồng chi mô?

– Hoa đến kì thì hoa phải nở

Đò đã đầy thì đò phải sang sông

Đến duyên thì em phải lấy chồng

Em yêu anh rứa đó, còn mặn nồng thì tùy anh”

Trời đất ơi, giữa vùng đạn lửa ác liệt, căng thẳng là thế, tôi được nghe khúc dân ca vừa đằm thắm tình người, vừa triết lý về quy luật của cuộc sống, sao mà mát ngọt, sao mà thấm thía. Dân mình là vậy, đâu có muốn gồng mình lên với súng đạn? Giặc đến thì phải đánh, nhưng giặc tạm rút, dân mình vẫn tình tứ, mặn nồng làm sao.

Trong đoàn tôi có một cô điện báo viên tên là Tính, người xứ Kinh Bắc, đáp lại bài ví đò đưa bằng một bài dân ca quan họ:

“Yêu nhau cởi áo ới à cho nhau

Về nhà, dối rằng cha dối mẹ a à a ới a

Rằng a ới a qua cầu

Rằng a ới a qua cầu

Tình tình tình gió ờ ơ gió bay…”

Cứ thế, thanh niên nam nữ hai bên hát nối nhau, hết bài này sang bài khác, vui quên hết tiếng gầm gừ của bom đạn từ phía Nam vọng lại. Bỗng, một anh bạn ngồi cạnh tôi tên là Tài, đứng bật dậy, nhìn sang cô gái tóc dài phía bên kia, cất lên tiếng hát nghe mượt như nhung, chất giọng của người quan họ:

“Đứng ở đằng xa yêu nhau i đứng ở đằng xa,

Con mắt liếc lại í con mắt liếc lại í bằng ba đứng gần.

Em còn son, anh cũng còn son. Anh còn son i, em i cũng i còn son i

Ước gì ta được ước a gì ta được í làm con một nhà.

Em i về thưa với mẹ cha

Anh ì về thưa với mẹ cha

Ta ì về, thưa... với… me… cha…”

Anh chàng này hóm hỉnh thật, hát mà cứ nhấn nhá ở những chứ đệm – hư từ: Í, a, ì, khiến cho bài hát trở nên hài hước, cuốn hút lạ thường. Mọi người vừa ngỡ ngàng, vừa vui sướng, vỗ tay ran ran. Đúng lúc ấy thì có tiếng kẻng báo động vang lên ở đầu làng. Đèn tắt phụt hết. Cuộc vui phải dừng lại giữa lúc cảm hứng đang dâng trào.

Tối ấy, nhóm của tôi gồm tôi, Lê Viết Vượng (phóng viên) và Cao Tuấn San (kỹ thuật máy ảnh) đang ngơ ngác tìm đường thì có một ông cụ trạc 70 tuổi ra gọi:

- Các con vào nhà bố mà ở!

Mừng quá, chúng tôi tạt vào. Ông cụ đi trước, lưng hơi còng song dáng còn nhanh nhẹn lắm. Trong nhà, một phụ nữ ra mở cửa liếp - đó là con dâu cụ lão. Gia đình lục đục thức dậy. Cụ mở màn, lay gọi hai đứa bé. Chúng tôi gạt đi:

- Thôi, để các em ngủ, chúng con nằm đâu cũng được!

Cụ sốt sắng:

 - Không, có chỗ cho chúng tôi rồi. Nằm đây cho tử tế.

Cái giường ấy rộng song hơi ngắn. Dưới gầm nó là một cái hầm lớn. Chiếc giường được kê nửa chìm, nửa nổi trên chiếc hầm đó.

Sáng, chúng tôi giật mình choàng dậy vì những tiếng động lớn. Mấy chiếc phản lực xà sát sạt, gầm rít điên loạn. Hai đứa chúng tôi vùng dậy định tụt xuống hầm, song lúng túng mãi vì mấy sợi dây dù ở cái võng chúng tôi dùng làm chăn đắp cuốn cả vào chân, tay. Lẫn trong tiếng phản lực, tôi nghe tiếng cười khanh khách giòn tan của trẻ thơ. Một cô bé chừng 14 tuổi đang đứng ôm cột nhìn chúng tôi mà cười. Trời, giữa vùng chiến sự ác liệt này sao lại có giọng cười hồn nhiên như vậy nhỉ?” (Đoạn này trích trong B trọc – Phạm Việt Long – NXB Thanh Niên, NXB Văn học 1999).

Cả ngày hôm ấy, chúng tôi ở tại nhà ông cụ với cô bé 14 tuổi có giọng cười ròn tan này. Hôm nay, yên tĩnh lạ thường. Không hề có tiếng bom rơi đạn nổ. Cũng không có tiếng máy bay gầm gào. Gió vi vu nồng nàn. Vượng đem chiếc đài bán dẫn SONY ra tìm sóng của Đài Tiếng Nói Việt Nam. Đây là chiếc Radio mà chúng tôi được cấp để nghe tin tức, phục vụ hoạt động báo chí khi ở chiến trường. Radio lạo xạo một lúc, rồi vang lên tiếng nhạc, lời hát: Em bé Bảo Ninh (Nhạc: Trần Hữu Pháp, Lời: Nguyễn Văn Dinh):

“Em bé Bảo Ninh

Bên bờ Nhật Lệ

Dưới trời lửa khói

Em như cánh tên

Bay trên cồn cát

Rẽ gió xông lên.

Cởi khăn quàng đỏ

Bọc đạn chuyển đi

Trận địa bom nổ

Khó khăn sá gì.

 

Tiếp đạn nào

Tiếp đạn chuyền tay trên chiến hào

Cho chú dân quân bắn nhào phản lực

Máy bay bốc cháy...

Đâm xuống biển khơi

Em reo em nhảy

Em truyền tin vui.

 

Em bé Bảo Ninh

Bên bờ Nhật Lệ

Như cánh hoa nhỏ

Nở bên chiến hào

Như chim đầu ngõ

Hót mừng xôn xao

Quay đẹp cuốn phim

Làng ta thắng Mỹ

Có em bé Bảo Ninh.”

Cô bé có giọng cười giòn tan ngồi sát vào chiếc Radio, mắt mở to, miệng mấp máy như đang hát theo. Khi tiếng hát của nghệ sĩ Kiều Hưng chấm dứt, bé vẫn im lặng, nhìn chòng chọc vào chiếc Radio như muốn thấy người hát ở trong đó. Vượng kéo cô bé lên ngồi vào chiếc đòn gỗ bên cạnh, hỏi:

- Cháu thích bài hát này à?

- Dạ!

- Cháu có muốn nghe kể về bài hát này không?

- Dạ, có, muốn nghe kể.

Vượng, bằng chất giọng Hà Tĩnh ấm áp, kể lại rành rọt về “Em bé Bảo Ninh”. Đây là một nhân vật có thật, một thiếu niên trạc tuổi cô bé này, sống ở làng Bảo Ninh, Đồng Hới, Quảng Bình. Em tên là Trương Ngọc Hương. Vào tháng 12 năm 1965, khi máy bay Mỹ ào ạt tấn công Đồng Hới, Hương không quản hiểm nguy, băng mình qua các cồn cát, mặc bom rơi đạn nổ, vác đạn tiếp tế cho bộ đội và dân quân chiến đấu với lũ giặc trời hung ác. Được chứng kiến làn đạn của quân dân Bảo Ninh xé tan xác máy bay địch, Hương vui cười, nhảy nhót, và lại tiếp tục vác đạn lên trận địa. Xúc động trước tấm gương dũng cảm của một chú bé đang tuổi ăn tuổi chơi mà đã tham gia chiến đấu, nhà thơ Nguyễn Văn Dinh sáng tác kịp thời bài thơ “Em bé Bảo Ninh”, để rồi nó trở thành bài hát được lan truyền rộng rãi nhờ bản phổ nhạc của nhạc sĩ Trần Hữu Pháp, qua giọng hát của nghệ sĩ Kiều Hưng, hoặc Bích Liên. Cô bé nghe như hớp lấy từng lời nói của Vượng, mắt không chớp. Vượng bảo:

- Ở đây, cũng có nhiều em bé Bảo Ninh, cháu nhỉ!

- Dạ. Chúng cháu cũng được đi tiếp đạn cho các chú dân quân…

Chiều, chúng tôi lại ra xe, lên đường. Vượng đã chép từ lúc nào lời bài hát “Em bé Bảo Ninh” vào một tờ giấy vở học sinh, tặng cô bé có giọng cười giòn tan và chú em của cô bé đó. Đến tận bây giờ, tôi vẫn không biết tên cô bé là gì, bởi cái tên tôi tự gọi bé có một sức gợi cảm lạ kỳ CÔ BÉ CÓ GIỌNG CƯỜI GIÒN TAN.

Chập tối, xe khởi hành. Chiếc đài bán dẫn mở vừa đủ nghe, phát đi buổi ca nhạc của Đài Tiếng nói Việt Nam. Trong tiếng động cơ ô tô chạy rầm rì, không biết do duyên nào, mà chương trình ca nhạc này phát lên một loạt bài hát ca ngợi con người, vùng đất miền Trung mà chúng tôi đang hành quân qua.

Ngọt ngào, tha thiết làm sao, bài hát Tiếng hò trên đất Nghệ an của nhạc sĩ Tân Huyền qua giọng hát của nghệ sĩ Tuyết Thanh:

“1. Tiếng ai hò trên quê ta đó (ớ ơ ớ ơ) nhặt khoan

Ấy tiếng dân quân luyện tập giữ làng, giữ trời xô-viết Nghệ An.

Ơi dòng nước sông Lam chảy từ trên ngàn

Qua những Anh Sơn, Thanh Chương, Nam Đàn

Còn nghe, còn nghe tiếng hò ngày xưa vọng vang.

Ơi... (chứ) nước sông Lam biết khi mô cho cạn

Cũng như tinh thần cách mạng của dân ta

Dù cho bão nổi mưa sa, (chứ) Nghệ An xô-viết vẫn là Nghệ An.

Tiếng ai hò trên quê ta đó (ớ ơ ớ ơ) nghe sao nhặt khoan

Ấy tiếng quân ta công sự sẵn sàng câu hò rung lá nguỵ trang.

Ơi mảnh đất quê hương nặng tình vô vàn

Tiếng trống năm xưa Xô-viết dậy làng

Giờ đây, giờ đây như giục lòng dân Nghệ An.

2. Tiếng ai hò trên quê ta đó (ớ ơ ớ ơ) mà hay

Ấy tiếng nông dân tay súng tay cày được mùa ngô lúa nặng tay.

Ơi dòng nước sông Lam chảy từ trên ngàn

Qua những quê ta ươm tơ chăn tằm

Còn nghe, còn nghe tiếng hò về khuya gọi trăng.

Ơi (chứ) nước sông Lam biết khi mô cho cạn

Cũng như tinh thần lao động của dân ta

Dù cho gian khổ băng qua (chứ) Nghệ An Xô-viết vẫn là Nghệ An.

Tiếng ai hò trên quê ta đó (ớ ơ ớ ơ) nghe sao nhặt khoan

Ấy tiếng công nhân Bến Thuỷ, núi Thành trên đường gươm súng hành quân.

Ơi giặc Mỹ hung hăng đừng hòng cắn càn

Xô-viết quê ta tất cả sẵn sàng diệt Mỹ, cùng nhau xới trồng vườn hoa Nghệ An.

3. Tiếng ai hò bên kia vang tới (ớ ơ ớ ơ) Nghệ An

Ấy tiếng quê hương kết nghĩa thắng càn, câu hò Quảng Ngãi rộn vang.

Ơi mảnh đất thân yêu còn nhiều gian khổ

Như nhắc quê ta nung chí căm thù

Dặn nhau, dặn nhau hãy vì miền Nam vượt lên.

Ơi (chứ) nước sông Lam biết khi mô cho cạn

Cũng như tinh thần cách mạng của dân ta

Dù cho bão nổi mưa sa (chứ) Nghệ An Xô-viết vẫn là Nghệ An.

Tiếng ai hò trên quê ta đó (ớ ơ ớ ơ) nghe sao nhặt khoan

Ấy tiếng quân dân quê của Bác Hồ gửi lời ra tới thủ đô

Thưa cùng Bác thân yêu và cùng với Đảng

Xô-viết quê ta tất cả sẵn sàng diệt Mỹ cùng nhau xới trồng vườn hoa Nghệ An...”

Bài hát Cô gái mở đường  của nhạc sĩ Xuân Giao và  Chào em cô gái Lam Hồng của nhạc sĩ Ánh Dương” phản ánh sinh động những hành động quả cảm của các cô gái Việt Nam không sợ nguy hiểm, gian lao, quyết bám đường, lấp hố bom, đảm bảo mạch máu giao thông:

“1. Đi dưới trời khuya sao đêm lấp lánh - tiếng hát ai vang vọng cây rừng.

Phải chăng em cô gái mở đường - không thấy mặt người chỉ nghe tiếng hát.

Ơi những cô con gái - đang ngày đêm mở đường.

Hỏi em bao nhiêu tuổi - mà sức em phi thường.

Em đi lên rừng cây xanh mở lối - em đi lên núi núi ngả cúi đầu.

Em đi bắc những nhịp cầu nối những con đường

Tổ quốc yêu thương cho xe thẳng tới chiến trường.

2. Cô gái miền quê ra đi cứu nước - mái tóc xanh xanh tuổi trăng tròn.

Bàn tay em phá đá mở đường - gian khó phải lùi nhường em tiến bước.

Em có nghe tiếng súng nơi tiền phương giục lòng.

Miền Nam tha thiết gọi cả nước ta lên đường.

Tiếng nói Bác Hồ trong tim ngời sáng - như sao mai lấp lánh rọi núi rừng.

Soi cho em đắp chặng đường trên đất quê nhà.

Tổ quốc yêu thương - ôi con đường mới anh hùng.

3. Đêm đã về khuya sương rơi ướt áo - tiếng hát ai vang vọng núi rừng.

Mặc bom rơi pháo sáng mịt mùng em vẫn mở đường để xe đi tới.

Yêu biết bao cô gái vui ngày đêm mở đường.

Rừng trăm hoa thắm nở chẳng có hoa nào bằng.

Em đi san rừng em đi bạt núi em như con suối nước chảy không ngừng.

Em đang bước tiếp chặng đường theo những anh hùng.

Tổ quốc yêu thương góp công cùng chiến thắng thù – góp công cùng tiền phương chiến thắng thù.”

Bài hát “Chào em cô gái Lam Hồng” rộn ràng, dí dỏm, tạo nên một không khí lạc quan, tin ở sức mạnh của các cô gái Thanh niên xung phong:

“Xe ta bon trên những dặm đường giữa làng quê ta

Băng qua bao suối đèo đồi nương, mà xe ta bon ra chiến trường.

Chào em cô gái Lam Hồng

Giữa tiếng bom gào đạn dội vẫn nghe vang vang câu hò trên đường, niềm vui lớn toả lan trên quê ta

Đi thông đường để những chuyến xe ta băng băng qua.

1. Hồng Lĩnh ơi đỉnh cao mây vờn đã cùng em từng nhiều đêm thức trọn

Nối tiếp những mạch đường quê nhà đường rộn ràng những chuyến xe qua

2. Hoành Sơn một mái xuôi về hoà tình em từ những viên đá nhỏ

Đêm đêm lát trên đường quê nhà đường rộn ràng những chuyến xe qua.

Tình nghĩa quê em sáng tỏ như ánh trăng đêm rằm

Tiền phương tay lái mang tình em đảm đang.

Xe ta bon bon đi trên đường lòng vui như mở hội

Đường quê em êm êm đưa như thoi dệt bao tâm tình

Lững lờ đèn giặc dõi lửa soi để em đi thông đường

Kìa gà rừng vẳng gáy cuối nương

Dù xe anh chạy đêm chạy ngày cũng chẳng tày bằng tình nghĩa em vì miền Nam bao yêu thương

Đi thông đường để những chuyến xe qua

Hòa chung tay lái em đã góp công ngày đêm trên tuyến đường.

(ĐỂ KẾT)

Dồn nhanh tay lái vút tiếng hát ca chào quê hương Lam Hồng

Hỡi la hỡi là hỡi là... Hỡi la hỡi là hỡi là... Hỡi la hỡi là hỡi là..”

Bây giờ, khi viết lại những kỷ niệm thời ấy, tôi có dịp đọc tư liệu về hoàn cảnh ra đời của bài hát, xin chia sẻ lại với bạn đọc: “Trong lần trò chuyện với chúng tôi, nhạc sỹ Nguyễn Văn Dung - người bạn sáng tác nhạc cùng thời với cố nhạc sỹ Xuân Giao chia sẻ câu chuyện về ca khúc “Cô gái mở đường”.

Bài hát được ra đời giữa sự khốc liệt của chiến tranh năm 1966, trên tuyến giao thông huyết mạch nối liền hậu phương với tiền tuyến từ Thanh Hóa trở vào Hà Tĩnh. Khi ấy, nhạc sỹ Xuân Giao cùng nhạc sỹ Đỗ Nhuận, Phạm Tuyên và Hoàng Vân… có chuyến công tác trên tuyến đường giao thông ra tiền tuyến.

Bài hát được xuất phát từ sự “ngỡ ngàng” của nhạc sỹ Xuân Giao khi bất chợt nghe thấy ở đâu đó giữa màn đêm tối vút lên tiếng hát trong trẻo, yêu đời. Cũng vì thế mà câu hát mở đầu ca khúc cũng chính là bối cảnh tại tuyến đường cầu Hàm Rồng: “Đi dưới trời khuya sao đêm lấp lánh, tiếng hát ai vang động cây rừng? Phải chăng em, cô gái mở đường? Không thấy mặt người chỉ nghe tiếng hát…”

Và cứ như vậy, hình ảnh những “cô gái miền quê ra đi cứu nước” đã được nhạc sỹ Xuân Giao khắc họa chi tiết theo từng giai điệu của bài hát với vẻ đẹp dịu dàng mà “phi thường” của những “mái tóc xanh, xanh tuổi trăng tròn”.

Sự “phi thường” và công lao của những cô gái mở đường năm ấy càng được khắc họa rõ hơn với những hình ảnh mang hào khí tuổi trẻ sục sôi tình yêu quê hương lay động lòng người trong ca khúc “Chào em cô gái Lam Hồng” của nhạc sỹ Ánh Dương.

Ca khúc được sáng tác giữa tiếng “bom gào, đạn dội” mùa hè năm 1967 khi nhạc sỹ Ánh Dương trên đường công tác về đã gặp những cô gái thanh niên xung phong (TNXP) Hà Tĩnh gan dạ, kiên cường bám đường suốt ngày đêm trên tuyến đường 15A bị bom đạn cày đi xới lại, sống chết kề trong gang tấc. Nhạc sỹ Ánh Dương chia sẻ, khi bom nổ trên đường xe chạy, các cô gái hối hả có mặt lấp hố bom cho xe thông suốt. Sự sống hay cái chết cũng đâu có là gì với những người con gái “chẳng tiếc máu xương”, quyết xả thân vì miền Nam thân yêu, vì sự toàn vẹn của Tổ quốc.

“Lững lờ đèn giặc dõi lửa soi để em đi thông đường” - câu hát ấy chưa thể nói hết lòng quả cảm của những cô gái TNXP. Bởi lẽ, giữa bao gian nguy như vậy nhưng sự tươi đẹp vẫn luôn hiện hữu kia mà, vẫn nghe thấy tiếng “gà rừng vọng gáy cuối nương” để vang lên tiếng hò hừng hực khí thế: “vượt đèo Ngang nào bạn ơi!”.

Mỗi khi xe đi qua những vùng trọng điểm lại bắt gặp tiếng nói, tiếng cười chào hỏi thân thiện, đôi khi những câu hò làn điệu dân ca Nghệ Tĩnh cũng vút lên mang “niềm vui lớn tỏa lan trên quê hương”, làm xao xuyến lòng người giữa những khốc liệt của chiến tranh.

Cảm xúc dâng trào khi chứng kiến hình ảnh cảm động của những cô gái với “bàn tay dời non mà lấp biển”, nhạc sỹ Ánh Dương đã giãi bày tất cả sự cảm phục của mình vào bài hát ngay trong đêm hôm đó.

“Dù xe anh chạy đêm chạy ngày cũng chẳng tày bằng tình nghĩa em vì miền Nam bao yêu thương” là câu hát bày tỏ rõ nét nhất sự cảm phục của tác giả cũng như của những chiến sỹ vào Nam ngày ấy đối với “tấm lòng quê em sáng tỏ như ánh trăng đêm rằm” của những cô gái TNXP ngày đêm đảm bảo thông suốt cho giao thông đất nước, đong đầy “tình Nam với nghĩa Bắc”… (Vũ Thành – Quỳnh Anh – Tapchigiaothong.vn).

Bài hát “Quảng Bình quê ta ơi” của nhạc sĩ Hoàng Vân nghe sao mà thắm thiết và thôi thúc:

“1. Nếu ai hỏi vì sao quê hương chúng ta nhiều ngói mới

Rằng: có đằng cay nên chừ mới có ngọt bùi

Nếu ai hỏi vì sao quê hương chúng ta đồng lúa tốt

Có nhớ những ngày cơ cực tối tăm ngày xưa

Quảng Bình (Khoan khoan hò khoan) bao mến thương (Khoan khoan hò khoan)

Đã mười năm rồi quê ta bao đổi thay rồi (Khoan khoan hò khoan)

Từ biển xanh (Khoan khoan hò khoan) đến rừng núi xanh (Khoan khoan hò khoan)

Xinh tươi bốn mùa rộn vang tiếng hò khoan Lệ Thủy trên dòng sông Kiến Giang dạt dào tình quê

Ơi chị dân quân canh gác ven biển

Ơi anh chiến sĩ cang gác bầu trời

Mỗi ngày quê ta trưởng thành hạt giống cách mạng đã nảy mầm xanh tươi

(Điệp khúc)

Quảng Bình quê ta ơi!

Giữ lấy đất trời của quê hương ta

Giữ lấy những gì mà ta yêu qúy

Quảng Bình quê ta ơi!

Muôn người như một gửi về Trịn Thiên tấm lòng sắt son

Hẹn ngày chiến thắng ta sẽ về trong một nhà

2. Có ai về Đại Phong xin vô ghé thăm vùng bến Tiến

Tay cuốc khai hoang đã đẩy lùi quá khứ nghèo nàn

Có ai về Quảng Phú vui nghe tiếng hò kéo lưới

Hợp tác chung trời chung biển cá tươi đầy khoang

Vẻ vang thay (Khoan khoan hò khoan) bao tấm gương (Khoan khoan hò khoan)

Bám biển đêm ngày (Khoan khoan hò khoan)

Đồng luá xanh (Khoan khoan hò khoan) với hàng cây xanh (khoan khoan hò khoan)

Vui trên bến thuyền ngược xuôi giữa dòng Nhật Lệ như những con thoi suốt ngày từng đoàn xe đi

Ơi chị thanh niên phơi muối ven biển

Ơi anh công nhân đắn gỗ trên rừng

Lưá tuổi thanh xuân hai mươi tuổi đời cùng với quê hương lớn lên rồi cả cuộc đời mới

(Điệp khúc)

Quảng Bình quê ta ơi!

Giữ lấy đất trời của quê hương ta

Giữ lấy những gì mà ta yêu qúy

Quảng Bình quê ta ơi!

Muôn người như một gửi về Trịn Thiên tấm lòng sắt son

Hẹn ngày chiến thắng ta sẽ về trong một nhà

3. Có ai về Rào Nam xin vô ghé thăm vùng Cự Nẫm

Làng chiến đấu xưa nay đã đổi mới muôn màu

Có ai về Cảnh Dương quê tôi đứng nơi đầu sóng gió

Truyền thống đánh giặc giữ làng mãi mãi còn đây

Dòng sông Giang (Khoan khoan hò khoan) với hàng dương (Khoan khoan hò khoan)

Đời đời hát ca tên anh , những người anh hùng (Khoan khoan hò khoan)

Có còn nhớ chăng (Khoan khoan hò khoan) những ngày kháng chiến (Khoan khoan hò khoan)

Đêm đêm ngóng chờ tin thắng trận bến Xuân Bồ

Ôi! nhớ sao các mẹ các anh chị dành gạo nuôi quân

Ơi! chị dân quân canh gác ven biển

Ơi! anh chiến sĩ canh gác bầu trời

Mỗi ngày qua quê ta trưởng thành hạt giống cách mạng đã nảy mầm xanh tươi

(Điệp khúc)

Quảng Bình quê ta ơi!

Giữ lấy đất trời của quê hương ta

Giữ lấy những gì mà ta yêu qúy

Quảng Bình quê ta ơi!

Muôn người như một gửi về Trị Thiên tấm lòng sắt son

Hẹn ngày chiến thắng ta sẽ về trong một nhà”.

“Quảng Bình quê ta ơi ra đời vào năm 1964, thời điểm Không quân Mỹ bắt đầu mở những cuộc tấn công xâm lược quy mô lớn đầu tiên vào miền Bắc. Trong lần đi xâm nhập thực tế tại tuyến lửa Quảng Bình, tận mắt chứng kiến không khí hào hứng khẩn trương chiến đấu và xây dựng quê hương nơi đây, nhạc sĩ Hoàng Vân đã sáng tác nên khúc ca này.

Năm 1966, Quảng Bình quê ta ơi được NSƯT Kim Oanh và tốp ca nam nữ thể hiện trên sóng phát thanh của Đài tiếng nói Việt Nam. Bao thế hệ người dân Quảng Bình đã lớn lên, được nuôi dưỡng tình yêu với quê hương và Tổ quốc qua giọng hát tha thiết của chị. Những người lính Quảng Bình tóc bạc vẫn thường kể cho nhau nghe về cái thời khói lửa ấy, khi họ mới mười tám, đôi mươi, tóc vẫn còn xanh, nghe tiếng hát của nghệ sĩ Kim Oanh, họ đã cắt tay lấy máu viết đơn xin nhập ngũ.” (giaitri.vnexpress.net - Anh Trâm).

Bài hát  Bình Trị Thiên của nhạc sĩ Nguyễn Văn Thương sáng tác từ năm 1948, nay cũng vang lên, đưa chúng tôi vào tận bên kia giới tuyến:

“Hướng về Nam...

Ai từng vô sông Hương, từng nương Thiên Mụ

Từng ngụ Đập Đá, Văn Xá, Truồi Nong.

 

Hướng về Nam...

Ai đã vô Đông Hà, đã qua Ngô Xá

Đã đi Bích La, Thủy Ba, Triệu Phong.

 

Hướng về Nam...

Ai đã qua đèo Ngang, đã sang Ba Rền

Mến dòng sông Gianh, biết danh lũy Thầy

Giờ đây lửa cháy ngút trời, máu nhuộm đồng xanh

Ôi đau thương điêu tàn...

 

Hải Lăng mồ chen thôn xóm, cát trắng ven làng máu hoen

Dân lành yên vui giặc lên tàn sát.

Chí Long đồng quê tan tác, Trung Nẫm đường vắng lối không

Xót thương đàn em xác chìm dòng sông.

 

Làng cháy cây héo khô, đồng nương nồng hơi súng

Xa tắp còn đâu bóng lúa xanh

Nhà thiêu nền trơ đất, người đi lòng u uất

Sôi chảy máu căm thù trào dâng...

 

Đồng bào ơi cùng Bình - Trị - Thiên đứng lên

Đứng lên ta nguyện giết loài lang sói.

Căm thù đây phải trút hết, loài hung tàn phải quét hết

Ta tiến lên giữ lấy nương đồng.

 

Đây Cự Nẫm, kia Câu Nhi, này Ba Lòng, kia Khe Sanh

Nơi oai linh chôn thây quân thù.

Bình - Trị - Thiên đây lò tranh đấu

Chiến công muôn đời lòng đất nước ghi sâu.

 

Đồng bào ơi cùng Bình - Trị - Thiên đứng lên

Giết quân tham tàn xéo giày thôn xóm

Không ngừng tay quyết chiến đấu, dù gian khổ quyết xốc tới

Taychúng ta giữ vững quê nhà

 

Cho đàn em cất tiếng hát, cho cánh đồng lúa bát ngát

Cho nơi nơi yên vui chan hòa.

Bình - Trị - Thiên ơi miền thân mến

Có ai xuôi về cho ta nhắn thương yêu...”

Đúng như lời bài hát thể hiện, chúng tôi đang “hướng về Nam” với tình “thương yêu” và mong muốn đất nước “yên vui chan hòa”

Đó là tư liệu tôi đọc được khi viết cuốn sách này. Còn vào thời điểm ấy, tôi cũng như đồng đội bị cuốn hút vào ca từ và giai điệu bài hát một cách tự nhiên, cảm thấy nó là cỏ cây hoa lá đang vươn lên từ mảnh đất đầy bom đạn để tiếp thêm nguồn sống cho chúng tôi, tạo thêm sức mạnh cho chúng tôi chuẩn bị vượt Trường Sơn vào chiến trường.

Những ca khúc tôi vừa dẫn có một đặc tính là phản ánh rất chân thực thực tế từng địa phương mà ca khúc nói tới, từ các địa danh, quá trình dựng xây, thành tích chiến đấu, gắn với chất liệu dân ca từng địa phương, cho nên, mặc dù lời thường dài (có khi hai, ba lời trong một ca khúc) nhưng nghe mãi không chán, càng nghe càng thêm yêu thương mảnh đất ấy, con người nơi ấy. Thực sự, dòng ca khúc cách mạng đã tạo thành một pho sử không kém phần chính xác và lại rất sinh động về đất nước, con người Việt Nam ta. Bây giờ, người ta ngại viết lời dài, vì, như nhạc sĩ Thuận Yến nói, các ca sĩ ngại học lời, không thuộc lời dài, cho nên chỉ nên viết một lời thôi. Nhiều ca khúc thời nay tuy ngắn gọn, nhưng nhạt nhẽo, ca từ thô thiển, làm sao mà sánh được với những ca khúc bật ra từ những trái tim nồng nàn tình yêu cuộc đời, yêu non sông, yêu con người như thời ấy.

(Còn nữa)

Bạn đang đọc bài viết "Ngân vang mãi giai điệu Tổ quốc (phần 8)" tại chuyên mục Nghiên cứu. | Hotline: 08.4646.0404 | Email: toasoan@vanhoavaphattrien.vn