Quốc hiệu Việt Nam qua các thời kỳ lịch sử (Kỳ 35)

PGS TS Cao Văn Liên

12/06/2023 06:05

Theo dõi trên

Trân trọng giới thiệu tiếp "Quốc hiệu Việt Nam qua các thời kỳ lịch sử" của PGS TS Cao Văn Liên do Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia ấn hành.

Kỳ 35

Trên cơ sở Hiến pháp, chúng ta đã ra sức xây dựng hoàn thiện hệ thống pháp luật phục vụ cho việc xây dựng một nhà nước pháp quyền. Luật hiến pháp bao gồm các luật liên quan đến điều chỉnh các quan hệ quyền lực nhà nước như luật tổ chức Quốc hội, Luật tổ chức Chính phủ, Luật tổ chức Toà án nhân dân, Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Ta đã xây dựng các Bộ luật dân sự, Luật hình sự, Lụât tố tụng, Luật về kinh tế, Luật về văn  hoá, Luật về xây dựng quốc phòng và an ninh .

          2. Kinh tế: Với công cụ là hệ thống chính trị mà nòng cốt là nhà nước đã thực hiện chức năng đối nội và đối ngoại trong thời kỳ đổi mới. Đối nội, nhà nước đã tổ chức, động viên, quản lý nhân dân xây dựng  phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội hướng tới thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, thực hiện chính sách xoá đói giảm nghèo đối với nông thôn, thực hiện chính sách ưu tiên phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội đối với cho các dân tộc  thiểu số với các dự án chương trình 134, 135. Năm 2007 đã nâng cấp cơ sở nông thôn miền núi, xây dựng được 4.213 công trình cơ sở hạ tầng, góp phần nâng tỉ lệ xã có đường ô tô đến trung tâm 96 % , 97 % xã miền núi có trạm y tế, 84 % số xã có đủ trường lớp tiểu học và trung học cơ sở, 90 % xã có điện lưới quốc gia, 81% số xã có công trình thuỷ lợi nhỏ. Năm 2007 cũng đã hỗ trợ  330.293 nhà ở cho đồng bào nghèo dân tộc thiểu số, đã giải quyết đất cho 78 % số hộ  với 74 % diện tích theo kế hoạch, giải quyết đất sản xuất cho 70.549 hộ với diện tích 25.151 ha. Năm 2008 chương trình 135 có vốn 3.043 tỉ đồng, trong đó vốn cho các xã đặc biệt khó khăn  là 1.976 tỉ, vốn cho thôn bản đặc biệt khó khăn khu vực 2 là 635 tỉ, vốn cho các nhiệm vụ khác 432 tỉ đồng. (Báo Đại đoàn kết số 179-2007). Thực hiện tốt chính sách đền ơn đáp nghĩa đối với những gia đình thương binh, gia đình liệt sĩ, gia đình có công với nước. Tỉ lệ hộ nghèo đã giảm nhanh từ 17 % năm 2000 xuống còn 7 % năm 2005. Theo chuẩn mới tỉ lệ hộ nghèo giảm từ 22 % đầu 2006 đến 2007 còn khoảng 14,87 %. Đời sông nhân dân, nhất là các vùng nông thôn được cải thiện rõ rệt. Chính phủ cũng cương quyết cùng nhân dân chống bão lũ lụt, hỗ trợ kịp thời để khắc  phục và giảm thiểu khó  khăn, kiên quyết ngăn chặn và dập tắt các ổ dịch gia cầm, gia súc hoành hành dữ dội vào những năm cuối thế kỷ XX. Cấm và loại bỏ hoàn toàn hủ tục đốt pháo trong những ngày tết Nguyên đán, kiên quyết trấn ấp các loại tội phạm, nhiều biện phạm quyết liệt để giảm thiểu tai nạn giao thông, qui định việc đội mũ bảo hiểm xe máy trở thành bắt buộc của pháp luật đối với người tham gia giao thông. Chính phủ đề ra nhiều chính sách để giải quyết nạn thất nghiệp . Năm 2003 nhà nước đã tạo được việc làm cho 1.325.000 người, năm 2007 đạt 1.700.000 người, đạt 105,3 % kế goạch (thời báo kinh tế Việt Nam số tháng 2-2008).

         Về đối ngoại, đang trên lộ trình xây dựng đường biên giới hữu nghị hoà bình với các nước láng giềng Cam pu chia, Lào, Trung Quốc. Việt Nam đã xây dựng được tình hữu nghị với các nước Đông Nam Á và gia nhập khối  “Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á” (ASEAN ) năm 1995, xây dựng tình hữu nghị với tất cả các quốc gia trên thế giới. Đầu năm 2007 Việt Nam gia nhập Tổ chức thương mại thế giới (WTO)  và  ngày 16-10- năm 2007 được bầu làm Uỷ viên không thường trực  Hội đồng bảo an Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2008-2009, được tham gia vào cơ quan quyền lực cao của tổ chức quốc tế lớn nhất hành tinh, góp phần giải quyết vấn đề hoà bình và an ninh thế giới  thế giới. Hiện nay Việt Nam đã đặt quan hệ ngoại giao với  167 nước, trong đó có 50 nước ở cấp đại sứ. Viêt Nam là thành viên của ASEAN, Khối cộng đồng Pháp ngữ, Diễn đàn hợp tác  kinh tế các nước châu Á Thái Bình Dương (APEC), Hội nghị hợp tác kinh tế Thái Bình Dưong (PECC), Liên hợp quốc. Nhà nước Việt Nam khẳng định cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài là một bộ phận không thể tách rời của Cộng đồng dân tộc Việt Nam. Năm 2007 nước ta cũng đã  thực hiện miễn thị thực nhập cảnh đối với Việt kiều .

         -Kinh tế Việt Nam từ 1975 đến 2007.

          Từ 1975-1985: Xây dựng chủ nghĩa xã hội theo mô hình cũ (Tập trung-hành chính-mệnh lệnh quan liêu bao cấp). Sau khi thống nhất đất nước, miền Nam hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội theo đường lối của Đại hội IV và Đại hội V. Nội dung của đường lối đó là nắm vững chuyên chính vô sản, phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động, tiến hành đồng thời ba cuộc cách mạng: Cách mạng quan hệ sản xuất, cách mạng khoa học kỹ thuật, cách mạng tư tưởng văn hoá, trong đó cách mạng khoa học kỹ thuật là then chốt. Đẩy mạnh công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa được coi là nhiệm vụ trung tâm của thời kỳ quá độ. Ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lý trên cơ sở phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ, vừa xây dựng kinh tế trung ương vừa phát triển kinh tế địa phương, kết hợp kinh tế với quốc phòng làm cho Việt Nam trở thành nước xã hội chủ nghĩa  có kinh tế công nông nghiệp hiện đại, văn hoá khoa học kỹ thuật tiên tiến, quốc phòng vững mạnh, có đời sống văn minh, hạnh phúc .

         Thực hiện đường lối trên, Việt Nam đã thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ 2 (1976-1980) nhằm xây dựng cơ sở vật chất cho chủ nghĩa xã hội,  bước đầu có được cơ cấu kinh tế xã hội chủ nghĩa, cải thiện một bước đời sống vật chất, văn hoá của nhân dân. Qua 5 năm thực hiện kế hoạch kinh tế  này, nền kinh tế nước ta được khôi phục, hàn gắn vết thương chiến tranh. Tuy nhiên những thành tựu kinh tế còn thấp  so với kế hoạch, mất cân đối nghiêm trọng trong nền kinh tế quốc dân, chưa bảo đảm được tiêu dùng cho toàn xã hội. Thiếu thốn các nhu yếu phẩm như lương thực, vải vóc . . . đời sống nhân dân lao động khó khăn, thiếu thốn năng lượng, vật tư. Giao thông vận tải không đáp ứng được nhu cầu vận chuyển, đi lại. Không tạo được tích luỹ vốn, chênh lệch giữa thu và chi, giữa hàng và tiền, nhập khẩu so với xuất khẩu còn chênh lệch quá lớn .

         Những khó khăn trên xuất phát từ nguyên nhân chủ quan và khách quan. Khách quan là do ta đi lên chủ nghĩa xã hội từ một nước nghèo nàn,  sản xuất tiểu nông, lại bị chiến tranh lâu dài tàn phá. Về nguyên nhân chủ quan chúng ta nhận định tình hình đất nước sau chiến tranh còn thiên về thuận lợi, chưa lường hết những khó khăn thách thức. Từ đó đề ra chủ trương công nghiệp hoá khi chưa có những tiền đề. Trong xây dựng kinh tế thiên về công nghiệp và xây dựng cơ bản, không tập trung phát triển nông nghiệp, thực phẩm và hàng tiêu dùng dẫn đến thiếu trầm trọng những hàng tiêu dùng, nhu yếu phẩm. Nóng vội khi chủ trương cải tạo xã hội chủ nghĩa ở miền Nam. Chậm xoá bỏ chế độ quan liêu bao cấp, không xử lý nghiêm những hành động vi phạm pháp luật. Tham nhũng đã trở thành một hiện tượng nhưng không được đè bẹp để sau này chúng ngày càng phát triển thành một nguy cơ đối với chế độ vào những năm cuối cùng của thế kỷ XX và đầu thế kỷ XXI .

         Trong hoàn cảnh đó, Đại hội Đại biểu toàn quốc lần V của Đảng họp tháng 3 -1982 nhận thức rằng đường lối xây dựng chủ nghĩa xã hội và xây dựng kinh tế là chung cho cả thời kỳ quá độ. Muốn thực hiện thắng lợi phải cụ thể  đường lối đó thành những chặng đường  với những nhiệm vụ và biện pháp cụ thể hợp với khả năng và yêu cầu của từng chặng đường. Từ nhận thức đó, Đại hội V xác định trong 5 năm (1981-1985) và những năm 80 cần tập trung phát triển nông nghiệp,  đẩy mạnh sản xuất hàng tiêu dùng, tiếp tục xây dựng một số ngành công nghiệp nặng quan trọng .

         (Còn nữa)

          CVL

                                               

        

 

 

Bạn đang đọc bài viết "Quốc hiệu Việt Nam qua các thời kỳ lịch sử (Kỳ 35)" tại chuyên mục Nghiên cứu. | Hotline: 08.4646.0404 | Email: toasoan@vanhoavaphattrien.vn