Nhật ký “Lính chiến” của CCB Phạm Hữu Thậm (Kỳ 21): Lãnh đạo xã tuyên bố làm lễ cưới cho chúng tôi sau đêm đánh trận thắng Mỹ

Đặng Vương Hưng (Biên soạn và giới thiệu)

09/01/2023 08:41

Theo dõi trên

Ngày 03/5/1971, mới mờ sáng chiếc tàu già L19 đã bay trinh sát, lượn lờ trên không hơn một tiếng đồng hồ, sau đó gọi 6 chiếc phản lực gồm 2 chiếc A7, 2 chiếc AV8, 2 chiếc A10 và 6 trực thăng loại AH1 và AH56 đến.

Một đàn máy bay điên cuồng bỏ bom, đánh phá các trọng điểm suốt từ 8 giờ sáng đến 13 giờ chiều.

14 giờ chiều cùng ngày, địch điều 6 chiếc CH46 và 6 chiếc CH47 chở một Tiểu đoàn quân Mỹ thuộc Tiểu đoàn 1, Lữ đoàn B nhảy dù số 137 đổ quân xuống các địa điểm: Suối Đá, bãi bằng Vú Tiên, cao điểm 602 mỗi nơi 1 Đại đội. Tiểu đoàn bộ của địch đóng ở đồi Không Tên. Phía ta không có lực lượng nào chống cự.

d1advh1-1673228233.jpg
Chú thích ảnh

Mỹ đổ quân ở đây, có lẽ nhằm chặn đường Sư đoàn 2 quân giải phóng đi tham chiến chiến dịch Đường 9 Nam Lào. Chiến dịch diễn ra từ 08/2/1971 đến 23/3/1971, đến nay chưa thấy Sư đoàn 2 qua đây.

Quân Mỹ không ngờ Sư đoàn 2, Quân khu 5 đã đi theo đường dây bên Lào về đánh cao nguyên Bô Lô Ven. Còn Trung đoàn 38 Mặt trận 4, Khu 5 sau khi kết thúc chiến dịch Đường 9 - Nam Lào hiện đứng chân ở miền Tây Trị Thiên. Ông già vợ tôi bảo:

- Thằng Mỹ còn định giở trò gì đây?

- Nếu quân Mỹ vào, cha con ta quyết đánh!

- Ây à, có con rể bộ đội ở đây, tao tin cái bụng rồi!

d2ah1q-1673228312.jpg
Hai ảnh trên do tác giả sưu tầm chỉ mang tính minh hoạ.

8 giờ 05/5/1971, cối 81, cối 61 từ bãi bằng Vú Tiên bắn theo trục đường vào trại nhà Akay. Cối bắn dọn đường cho Đại đội Mỹ từ trên chốt tiến công bao vây khu nhà. Chúng lùng sục, tìm kiếm không thu được gì. Hai tên Mỹ đã châm lửa đốt nhà. Lửa cháy một lúc, thì quả mìn ông già làm bằng đạn 105 bén lửa nóng phát nổ làm chết một số tên.

Ông già ở công sự chiến đấu bắn một quả đạn M72 rồi vơ súng trung liên bắn. Akay giục tôi:

- Bắn đi ăn ơi, ba bắn rồi đó.

Tôi đã ngồi sẵn sàng dưới cộng sự, nghe Akay kêu liền bóp cò rê súng bắn quét vào quân Mỹ. Tiền hô hậu ứng, 2 khẩu súng máy chặn đầu khóa đuôi, bắn quân Mỹ chết nhiều vô kể ở cửa hang.

Akay cũng bắn đạn M79, M72 liên tục khiến quân Mỹ không bắn trả được, chỉ tìm chỗ ẩn nấp không dám cứu hộ nhau. Akay gài 2 quả mìn ở cửa hang bảo tôi ra tín hiệu cho ông già chạy. Tôi lấy 3 quả pháo sáng nhặt của Mỹ dộng (bắn) lên trời. Ông già ở trận địa bên kia thấy pháo sáng bắn lên liền vác Trung liên AR15, gọi con chó chạy vào rừng. Tôi và Akay mang súng AK, M79, M72, AR15 chạy ngược lên trên núi cao tìm hang chui vào trú ẩn.

Quân Mỹ thấy pháo sáng bắn lên, tưởng có quân chủ lực Bắc Việt tấn công, thì hốt hoảng bỏ thằng chết thằng bị thương hè nhau chạy. Thế là 2 bên đều chạy khỏi khu chiến 300m.

Quân Mỹ dừng lại triển khai chiến đấu, dùng hỏa lực bắn vào khu vực hang và trận địa ông già. Đạn cối 81, 61; đạn ĐK90, ĐK57; súng máy trung liên và Đại liên bắn liên kỳ hồi trận như đánh nhau to.

Đến 13 giờ chiều, không thấy quân ta bắn trả, quân Mỹ mới tổ chức bám vào cứu thằng bị thương và gọi máy bay trực thăng đến bốc xác. Chúng rút quân, không dám lùng sục khu vực này nữa.

16 giờ chiều cùng ngày 05/5/1971, thấy quân Mỹ đã rút hết ra ngoài bãi bằng. Chúng tôi tụt xuống hang. Akay gỡ mìn, tháo kíp để vào góc hườm đá. Trời đã gần tối, chúng tôi cũng không dám ra khu ngôi nhà cháy.

Lúc lâu sau, đến 17 giờ ông già về hang. Chúng tôi ăn lương khô sau đó ông già bố vợ nói:

- Thằng Mỹ đốt nhà rồi, chúng mày cứ ở hang, tao lại về hầm chiến đấu ngủ với con chó. Phải phân tán ra mới hỗ trợ nhau được.

Tôi hỏi đùa:

- Ba ngủ một mình có sợ ma không?

- Ma nào?

- Ma Mỹ đó.

- Ma sợ tao thì có, đời nào tao sợ ma, có con chó gác rồi.

Akay lấy lương khô, thịt hộp cho ba mang theo phòng khi chiến đấu. Ông già với con chó đi rồi. Tôi và Akay ra suối, người tắm người gác, sau đó vào hang đốt lửa trải xạp nằm nghỉ.

Bấy giờ tôi mới hút thuốc và nói:

- Akay à, đi chiến đấu không cần nhiều người cũng hay nhỉ. Cứ như 2 trận đánh hôm trước và hôm nay. Ta rất ít, địch nhiều, ta vẫn thắng chúng, mà lại không thương vong ai. Tối về hang tắm mát, lại có người chăm sóc. Anh chiến đấu cả đời cũng được.

- Ước gì eng được chăm sóc anh mãi mãi.

Sáng 6/5/1971, ông già đi nắm địch về cho biết:

- Quân Mỹ không đi càn, cụm cả ở ngoài bãi bằng, nhưng địch làm chi không rõ.

Chúng tôi tới khu nhà cháy thu dọn chiến trường, lượm các thứ Mỹ quăng. Lúc 09 giờ sáng, từ con đường hẻm trong rừng có 7 người, gồm 4 nam 3 nữ, mình mang vũ khí trang bị luồn lách trong các bụi cây. Tiếng một người đàn ông hỏi:

- A Phúc, A phúc có ở đây hông?

Ông già đáp lại:

- Mặc Sầu dô đây!

Tốp người tiến lại, kêu chu cha, mệt hung đó. Akay giới thiệu tôi:

- Anh bộ đội đây đánh ấp Hòa Nha lạc đường, lạc đơn vị qua đây lánh ít bữa, khỏe rồi sẽ tìm về đơn vị. Ba em các ảnh biết rồi. Còn 7 anh chị eng đây là cán bộ địa phương, dân quân du kích: Anh A Toàng là Chủ tịch xã, anh Đinh Phỉ làm Xã đội, còn Akay em làm Bí thư Chi bộ xã A Túc và làm Chính trị viên Xã đội. Các anh chị ở kia, người thì làm Trưởng ban Phụ nữ, Dân vận, người thì Chi đoàn Thanh niên… Toàn cán bộ xã đó anh.

Đinh phỉ nói:

- Mấy bữa nay, đơn vị chủ lực nào đánh nhau với Mỹ, súng nổ như động trời, chúng tôi ở xa hông biết mô tê chi hết.

Akay cười vui và bảo:

- Các anh theo tôi, sẽ biết chủ lực đơn vị nào đánh Mỹ.

Rồi Akay dẫn mọi người tới trận địa súng máy của ông già, chỉ cho biết số vỏ đạn và súng phóng rốc két M72. Sau đó, cô đưa đến chỗ nhà cháy, chỉ cho nơi đặt quả mìn diệt hàng chục tên Mỹ. Lại chỉ cho mọi người thấy bông băng đồ Mỹ quăng khắp nơi. Sau đó dẫn tiếp mọi người lên nóc hang tham quan khẩu súng máy 6 nòng…

Xem xong, tất cả cùng ngạc nhiên và ồ lên:

- Chu cha, coi mà ớn! Vỏ đạn nhiều hung, ai bắn vậy?

- Anh Thậm bộ đội và ba tôi bắn đó!

Một du kích nói:

- Sướng hè! Tụi Mỹ dô đây chết là cái chắc.

Chủ tịch A Toàng cho biết:

- Hồi hôm, anh em du kích đi nắm địch thấy quân Mỹ đưa vào máy bay 23 khiêng cáng. Nghĩa là đã có 23 lính Mỹ thương vong.

Akay nói:

- Ngày 20/4 vừa rồi, tui với ăn bộ đội bắn cháy một máy bay trực thăng và tiêu diệt 6 tên biệt kích. Máy bay còn nằm ở bãi đổ bộ ấy. Chúng tôi tháo 2 khẩu súng máy ở máy bay đem về đánh Mỹ đó.

- Được rồi, Xã đội và Chi ủy công nhận thành tích của 2 người để báo cáo lên Huyện khen thưởng - Đinh phỉ nói.

Akay đính chính:

- Chiến công đó của 3 người. Cả cha tôi nữa đấy!

Xã đội trưởng Đinh Phỉ lên tiếng:

- Anh bộ đội và cha con Akay ở nhà nghỉ ngơi, tụi tôi đi nắm địch xem sao.

Khoảng 13 giờ, Ban lãnh đạo xã đưa du kích về, đoàn đông tới 17 người với đầy đủ vũ khí và trang bị. Họ kêu Akay lại bàn việc.

Đinh phỉ nói:

Hiện giờ, một Đại đội Mỹ co cụm ở bãi đổ bộ Vú Tiên. Đêm nay ta chia làm 3 tổ bao vây, dùng hỏa lực tập kích. Chủ tịch xã và Bí thư chi bộ Akay ở nhà. Tôi là Xã đội trưởng cùng anh Kim Hùng trực tiếp chỉ huy.

Akay đem khẩu súng máy của cha và 3 quả lựu đạn M72 giao cho Xã đội bảo:

Các anh đem đi mà xài.

Xã đội trưởng Đinh Phỉ reo lên:

- Hay hung, ta nhất định thắng, Mỹ phải thua. Đêm nay ta làm cho bọn Mỹ không ngủ được. Các eng hãy đi nấu cơm ăn.

Akay vào hang đem ra hơn chục ký gạo và 12 hộp thịt bảo:

- Đây là hàng chiến lợi phẩm đem nấu ăn no còn đánh giặc.

Quân du kích thấy có gạo hò reo vang dậy. Họ đem ra rau sắn, hoa chuối, măng. Akay đưa thêm cho một gói mì chính Trung Quốc, một ống cân mỡ hóa học. Bữa cơm liên hoan mừng chiến thắng của gia đình Akay và tiếp tục ra quân chiến đấu.

Mấy cô nữ du kích động viên tôi:

- Anh bộ đội ở lại với Trường Sơn hè. Tụi em tặng anh chị Akay nè, núi rừng Trường Sơn tiếp nhận anh đó.

Tụi con trai cũng hùa theo:

- Anh ở lại đây đi bộ đội à. Ở đâu cũng là đánh Mỹ cả. Tụi em mới gặp anh mà đã có tình cảm rồi đó.

- Chị Akay có ưng anh bộ đội ni hông? Chê thì để tụi em lãnh liền đó - Một nữ du kích chen vào - Anh ưng cô nào trong tụi em cũng chịu liền.

Akay cũng không vừa, thẳng thắn nói luôn:

- Chị nào có chê, ưng ngay từ lần gặp đầu tiên mà. Ba chị cũng ưng cho phép liền. Anh chị đã làm vợ chồng, ăn ở với nhau rồi đó. Chỉ chưa mời được mọi người uống rượu thôi. Hẹn khi nào thắng Mỹ đã.

Mọi người cùng ồ lên: Chúc mừng, chúc mừng!

19 giờ tối 16/5/1971, Xã đội trưởng Đinh Phỉ phân công cho các Tiểu đội xong. Mọi người mang vũ khí, trang bị tiếp cận áp sát địch.

Chúng tôi ở nhà hút thuốc, uống nước chè, nói chuyện đến 22 giờ đêm. Đến 22 giờ, nghe súng máy M72 nổ rồi các cỡ súng nổ rộ. Đánh nhau chừng một giờ 30 phút sau, đoàn du kích trở về an toàn, không mất súng, không thiếu người.

Akay bảo mấy cô gái:

- Các em đi lấy cháo và chén đũa lại đây cho các anh ăn.

Một du kích kêu:

- Chu cha, mùi chi mà ngon hung đó.

- Cháo thịt hộp loại một cân của miền Bắc đó.

Cánh đàn ông ăn như heo bén máng, loáng một cái hết một xoong.

Akay bảo:

- Cứ bình tĩnh, còn xoong nữa đó nghe, mọi người đã ớn chưa?

Một du kích nói:

- Không bao giờ ớn chị nghe. Sớm mai có, vẫn chiến đấu được. Đánh nhau với Mỹ, chứ thứ này có ai bỏ chạy mô. Ban nãy có mấy đồng chí lúc đầu thì liên thanh, lúc sau thì phát một tức là 7 bát cấp tập, 8 bát cầm canh.

Mọi người cười rộ lên. Có anh vỗ bụng bành bạch. Ăn cháo xong, Akay còn đem phân phát cho anh chị em mỗi người một bánh lương khô, 1 hộp thịt loại 4 lạng rưỡi, 1 lạng mì chính bảo đem về làm quà cho gia đình.

Akay nói:

- Hồi đầu Giêng Sư đoàn 2, Quân giải phóng Khu 5 qua đây đi chiến dịch đường 9 - Nam Lào, tôi xin được một số thực phẩm, cũng không nhiều, cất giấu từ ấy đến giờ, nay anh em ta đi chiến đấu mới đem ra để động viên đó thôi.

Chủ tịch A Toàng lên tiếng:

- Tôi thay mặt lãnh đạo xã và anh chị em cảm ơn gia đình Akay đã hết lòng vì Cách mạng, một miếng khi đói bằng gói khi no. Chúng ta đánh Mỹ gặp nhiều khó khăn, người thiếu, vũ khí đạn dược thiếu, lương thực thực phẩm thiếu, ăn sắn, ăn ngô, nhịn ăn cũng phải đánh giặc.

Rồi Chủ tịch nhấn mạnh:

- Đồng chí Akay đã vì mọi người mà chia xẻ, của thì ít thôi nhưng đầy tình cảm với tình thương yêu đùm bọc. Cha con ông già lượm được anh bộ đội giữa chốn xa trường, khiêng gánh đi hàng ngày đường về đây cứu chữa, cưu mang, việc này cũng là vì cách mạng cả thôi. Anh bộ đội bây giờ chưa biết đi đâu về đâu, âu là ở lại với non ngàn, người Ca Tu rất mến khách ý anh bộ đội thế nào?

Tôi cũng trịnh trọng nói to:

- Thưa đồng chí Chủ tịch và các đồng chí lãnh đạo xã, các anh chị em: Nếu không có cha con Bí thư Akay cứu giúp, thì có lẽ tôi cũng đã chết. Tôi đồng ý ở lại đây cùng đánh Mỹ với mọi người!

Mọi người vỗ tay hoan hô. Bỗng Ykrông, tuổi ngoài 40, cán bộ Văn hóa xã lên tiếng:

- Thưa các đồng chí Lãnh đạo xã và bà con cô bác! Việc này là nhiệm vụ của tôi. Chúng ta đã không làm thì thôi, mà làm thì phảiđến nơi đến chốn. Anh bộ đội Thậm với cô Akay đã ưng nhau, gia đình cũng nhất trí và đồng ý. Vậy tôi thay mặt Ban Văn hóa xã làm Lễ Kết hôn cho anh chị tại đây. Chúc chú rể Thậm và cô dâu Akay hạnh phúc trăm năm!

Tiếng vỗ tay lại vang lên đồm độp không ngớt.

Đinh Phỉ đứng lên nói:

- Vậy là đêm nay chúng ta có niềm vui nhân đôi: Vừa liên hoan thắng trận, vừa chúc mừng hạnh phúc cho Bí thư Akay và anh Thậm bộ đội. Tôi đề nghị: vui liên hoan song phải hết sức cảnh giác, gác sách cẩn thận, phòng quân Mỹ tập kích đám hỷ thành đám hiếu đó nghe.

Một người tên Y Kà Rồng đứng lên nói:

- Tôi làm Công an Xã, thay mặt ký giấy chứng nhận kết hôn cho anh Thậm bộ đội và Akay. Mời anh chị ký tên vào giấy kết hôn.

Phi Lăng Ít, một người đàn ông cao tuổi nhất ở đây, tuổi trạc 50, đóng khố, cởi trần, trên đầu vấn khăn rằn sọc tím, sọc xanh chuyên làm anh nuôi cho đội du kích bỏ súng AR15 đeo trên người dựng ra gốc cây lên tiếng:

- Chiến tranh loạn lạc, chúng ta thiếu tinh thần vật chất, thiếu cả người, song Tổ chức chính quyền, gia đình đã nhất trí cho 2 trẻ thành đôi, tuy không rườm rà lắm nhưng cũng phải có một chút thủ tục lễ nghi cho phải đạo. Không có bàn thờ, hương hoa lễ vật, chỉ có con người là chính, lời hứa hẹn là niềm tin, có đống lửa đây làm chứng cho Thần rừng, Thần núi, Thần sông, ma xó, ma gà, cho tổ tiên. Chúng ta cứ làm lễ theo phong tục người phổ thông.

Tôi và Akay đứng trước đống lửa. Phi Lăng Ít hô:

- Nhất bái thiên địa (chúng tôi vái trời lạy đất); nhị bái Cao đường (chúng tôi vái ông già bố vợ); phu thê giao bái (hai chúng tôi vái nhau).

Rượu tà vạc rót ra 2 bát. Ông già Phi Lăng Ít đưa rượu và bảo chúng tôi ngồi quay mặt vào nhau, tay của 2 người khoác chéo nhau. Tôi đưa bát rượu vào miệng Akay, em đưa bát rượu vào miệng tôi cùng uống giao bôi.

Đội du kích vỗ tay cổ vũ: Động phòng thôi, động phòng thôi!

Hai đôi nam nữ dẫn chúng tôi đến cửa hang đưa cho bó đuốc rồi đẩy chúng tôi vào hô to:

- Động phòng huê chúc, sinh 5 con gái đẻ 7 con trai, bách niên giai lão!

*

Xã đội trưởng Đinh Phỉ quyết định cho du kích đi tập kích quân Mỹ đợt 2 trong đêm. Anh nói:

- Ta phải đánh bồi làm cho quân Mỹ chưa kịp hoàn hồn và không kịp trở tay, ăn không ngon, ngủ không yên, buộc chúng phải rút lui.

4 giờ 25 phút rạng ngày 07/5/1971, súng M72 phát hỏa, các cỡ súng nổ rộ một hồi. Akay vùng dậy:

- Lại đánh nhau rồi anh ơi, anh có mệt nằm đây mà nghỉ, em về xem sao.

- Em về thì anh cùng về. Mình là vợ chồng rồi, sao xa nhau được!

Tôi xách súng chạy theo đến nhà, thấy còn mấy người quanh đống lửa, ông già bố vợ, ông già Phi Lăng Ít, Chủ tịch A Toàng. A Toàng hỏi:

- Tân hôn vui vẻ chứ Akay?

- Dạ. Chúng cháu cảm ơn các bác và các chú ạ!

Nghe tiếng chân rậm rịch từ trong rừng đi ra, đội quân chiến thắng đã trở về. Thấy 2 người khiêng một cáng, tưởng tử sĩ, Akay ngẩn người ra. Đội trưởng du kích vui vẻ nói ngay:

- Chiến lợi phẩm đó. Lúc hai bên bắn nhau một con heo rừng chạy qua trước họng súng của xạ thủ súng máy Y Doan, bị trúng phát đạn chỗ hiểm, con heo chết ngay tại chỗ. Anh em đem nó về đây thịt ăn vài bữa, khi nào quân Mỹ rút hết mới đi.

Chiều 07/5/1971, lúc 14 giờ, 4 chiếc trực thăng Mỹ đỗ xuống bãi bằng bốc quân. Các cánh quân của địch ở Suối Đá và cao điểm 602 cũng được bốc đi, chỉ còn trơ lại đất đỏ và dấu vết chiến tranh trên cái bãi quân địch đổ bộ.

Núi rừng đã êm ả trở lại, Suối Đá lại reo, gió rừng lại hát.

Đinh Phỉ phân công các Tiểu đội đi thu hồi chiến lợi phẩm ở các bãi đổ bộ. Cơm chiều xong, đêm ấy Xã đội họp rút kinh nghiệm bình bầu cá nhân xuất sắc là Akay lập công đầu.

Sáng hôm sau, đội du kích ai về nhà ấy. Đội quân đi hết, bom pháo cũng không còn, núi rừng vắng vẻ buồn thiu.

Ngày 08/5/1971, tôi cùng ông già vợ chặt gỗ, chặt tre. Akay đi cắt cỏ tranh để dựng lại cái lán.

*

Thấm thoát đã gần 2 tháng, tình cảm chúng tôi đang nồng thì một hôm ông già bố vợ tôi đi rừng về nói:

- Bộ đội miền Bắc nhiều hung, đang rải quân ngủ ở ven rừng, bên suối nớ.

Sáng hôm sau 13/6/1971, tôi quyết định đi xem bộ đội ở đơn vị qua đây. Gặp mấy người tắm ở suối liền hỏi:

- Các đồng chí ở đơn vị nào vào đây?

- Trung đoàn 38, Mặt trận 4, Khu 5, đi chiến dịch Đường 9 - Nam Lào, nay rút quân về.

Tôi hỏi thăm đến Đại đội 14, thì gặp được Hải, Định, Hóa… Chúng tôi ôm nhau, tay bắt mặt mừng, kể lại quá trình chiến đấu.

Đại đội trưởng Mậu bảo tôi cùng đơn vị về luôn.

Trở lại hang làm công tác dân vận với cha con ông già và Akay cũng khó thật. Họ là ân nhân cứu sống tôi, lẳng lặng bỏ đi chằng đành lòng. Nhưng đã tìm được đơn vị rồi, làm sao tôi còn ở lại được nữa.

Đêm ấy, tôi tâm sự chia tay với Akay trong sụt sùi nước mắt, bịn rịn nhớ thương, hẹn ngày thống nhất anh về, núi rừng chờ, Akay đợi.

Ngày 16/6/1971, sáng ăn uống xong rồi, tôi ôm ông già bố vợ động viên:

- Ba giữ gìn, chăm sóc Akay dùm con.

- Tao biết rồi, nhiệm vụ đánh Mỹ mi cứ đi. Thằng Mỹ cút thi về đây, chúng tao đợi.

Akay dẫn tôi đi đến bên suối, ngồi với nhau trong bụi cây dù dì. Nghẹn lời, hai người ôm nhau. Cuối cùng, một cái hôn tiễn người ra đi.

Sang bờ tôi nhìn lại, Akay đứng như trời trồng trên tảng đá…

Đi hết cánh rừng già đến một con suối tôi nghỉ cho đỡ mệt rồi tắm. Lúc này bỗng dưng đấu tranh tư tưởng ghê lắm: nghĩa Đảng, tình dân cưu mang, cứu mạng bên nào nặng nhẹ? Tôi đeo ba lô cầm súng đến một chỗ cây cối um tùm mắc võng ngủ, định ở đây chờ đơn vị đi hết, lại về với Akay.

Sau một ngày đêm đấu tranh tư tưởng, tôi quyết định khoác ba lô trở về đơn vị. Đại đội trưởng Mậu trông thấy kêu lên:

- Ôi Thậm về đấy hả? Trở lại Trung đội nhé.

- Vâng, tôi lại về Trung đội 2!

Hóa bảo đi ăn cơm.

Nhưng tôi buồn quá ăn cũng chẳng ngon.

(Còn nữa)

Đ.V.H

Trái tim người lính