Đời lính thủy sôi sục của Phạm Trong Vinh: Thủy thủ đoàn tàu không số

Tong Hong Quan

20/03/2022 15:55

Theo dõi trên

Viết theo lời kể của thủy thủ đoàn tàu không số Phạm Trọng Vinh

ptv-1647766419.jpg

Cựu sinh viên Đại học Kinh tế Quốc dân; cựu chiến sỹ đoàn 126 đặc công Hải quân; cựu thủy thủ tàu không số đoàn 125 Hải quân Phạm Trọng Vinh. Ảnh do tác giả cung cấp.

 

Chiến dịch rà phá thủy lôi kết thúc, cũng là lúc kết thúc khóa huấn luyện. Lính sinh viên được điều động về các đơn vị: E171 tàu mặt nước, E172 tàu  phóng lôi, E125 tàu vận tải không số, E128 tàu đánh cá, C24 pháo cao xạ Hải quân... Hơn một chục chiến sỹ được giữ lại E126 để huấn luyện giai đoạn 2 bổ sung cho chiến trường.

Phạm Trọng Vinh được điều động về tàu V610 đoàn 125 đoàn tàu không số, đây là loại tàu to nhất, hiện đại nhất tại thời điểm đó.  Lúc này con đường vận chuyển của đoàn đã bị lộ. Nhiều chuyến phải đi theo đường hàng hải Quốc tế, để chờ sơ hở của tàu chiến Mỹ thì đâm thẳng vào bờ, bốc hàng. Có chuyến, tàu phải đi vòng xuống vịnh Thái Lan rồi ngược về Cà Mau.

Khi được đọc tên về đoàn 125, A trưởng rỉ tai Vinh:

-  Về đoàn 125 còn gian khổ, dễ "tỏi" hơn đoàn 126 đấy bạn ạ!

Cùng lính sinh viên về tàu 610 còn có Nguyễn Trung Thành sinh viên Trường Đại học Kinh tế Quốc dân. Tại đây Vinh được giao nhiệm vụ Hàng hải số 2 (Hàng hải là người lái tàu). Thành được giao nhiệm vụ thủy thủ mặt boong. Thật bỡ ngỡ, cậu thanh niên phố cổ: Làng đúc đồng Ngũ Xã bên Hồ Trúc Bạch Hà Nội chưa bao giờ được lên con tàu to như thế, lại được điều khiển nó. Được hướng dẫn  của hàng hải số 1(  người lái chính ) Vinh đã làm chủ được con tàu, bắt nó tiến, lùi, quay trái, sang phải, cập bến, rời bến nhẹ nhàng.

Tàu đã chất đầy hàng, sẵn sàng nhận lệnh lên đường. Tháng 12/1972, khi hiệp đình Pari về Việt Nam chuẩn bị ký kết. Bộ tư lệnh Hải quân thành lập tiểu đoàn 4 gọi là Hải quân giải phóng. Tiểu đoàn gồm 6 tàu:  V610 lính sinh viên có Vinh và Thành,  V608 lính sinh viên có Triệu Xuân Hoãn. Trần Đức Vui, La Bình, Nguyễn Văn Toản. Tàu V649 lính sinh viên có Tống Hồng Quân. Tàu 641 lính sinh viên có Trần Quốc Quân, Đặng Vũ Đỗ và tàu 609, 645. Chúng tôi được thay áo giải Hải quân bằng áo xanh bộ binh, mũ tai bèo như chiến sỹ giải phóng. 6 tàu rập rình khi ở sông Gianh, khi ở Hòn Si chờ thời cơ vào tiếp quản cảng Cửa Việt.

(Theo lịch sử đoàn 125 )

Vào cảng Cửa Việt  thành công, từ đó tàu Vinh như con thoi đi về chở hàng từ Hải Phòng vào Sông Gianh, cảng Đồng Hới, cảng Cửa Việt.

Một kỷ niệm không thể nào quên là khi chuyển sang tàu V665, tàu bị mắc cạn tại cửa sông Thạch Hãn. Gần một tháng vật vã trong sóng gió, cả tàu tập trung bốc, thả các kiện hàng  xuống biển cho sóng đánh dạt vào bờ để Bộ đội, nhân dân sẽ ra vớt vào. Tàu đã nhẹ đi một phần nhưng sóng cứ đánh, đẩy tàu vào sâu trong doi cát. Thuyền trưởng cho tàu lùi, thủy thủ đo sâu, nhảy xuống biển bới cát cho tàu lùi ra, gọi tàu bạn tới kéo, kéo đến đứt cáp. Cuối cùng Chỉ huy đoàn 125 phải điều động tàu kéo có sức kéo lớn từ Hải Phòng vào mới kéo được tàu V665 ra khỏi bãi cạn.

Tháng 5 năm 1974, Bộ tư lệnh Hải quân có chủ trương chiến lược là: Đánh chiếm tàu địch, dùng yếu tố bất ngờ tiến công các cảng, căn cứ hải quân của địch. Dùng tàu địch đón, chở bộ đội đặc công đi giải  phóng Trường Sa... 

Muốn vậy cần điều động các thủy thủ chuyên ngành hàng hải, thợ máy, mặt boong về đội 1 đoàn 126 huấn luyện.

Lính sinh viên có Phạm Trọng Vinh, Triệu Xuân Hoãn và một số chiến sỹ khác được điều động trở lại Đội 1 là đội có tới 6 anh hùng Quân đội. Vinh được tập luyện chiến thuật, kỹ năng đánh chiếm tàu, đánh chiếm căn cứ hải quân ngụy với những người anh hùng đoàn đó.  Không bút nào tả hết sự gian nan, vất vả của các chiến sỹ đội 1 trong tập luyện.  Mỗi tuần Vinh cùng các chiến sỹ đội 1 có hai buổi bơi dã ngoại. Tàu của đoàn 125 chở họ ra ngoài đèn biển Long Châu, các chiến sỹ đặc công bắt đầu bơi về Cát Hải,  khoảng cách gần 30km. Mỗi tổ có ba người bơi theo hình chữ V ngược.

Hai chiến sỹ bơi trước kéo theo kiện hàng nặng khoảng 50kg tượng chưng cho thuốc nổ, mìn, súng đạn... Người thứ ba bơi sau đẩy kiện hàng. Mỗi chiến sỹ chỉ được mang theo một phong lương khô 702 và 01 dao găm gài ở ống chân để cạo gỉ trên thân tàu địch khi gắn mìn lên đáy tàu. Có buổi bơi đêm, bầu trời đầy sao, trăng sáng vằng vặc,  có đêm mưa phũ phàng quất vào mặt rát bỏng. Sóng đẩy người lên xuống như quả bóng bồng bềnh trong nồi nước sôi.  Bơi đến Cát Hải chúng tôi mệt nhoài, mỏi rã rời. Chân tay trắng bợt, nhăn nheo, người sút đi vài kg.  Nghỉ ngơi một buổi hôm sau lại bơi tiếp từ Cát Hải về Đồ Sơn Hải Phòng, tập đánh căn cứ pháo bờ biển. Có chiến sỹ ngất trên đường bơi được tàu kéo lên cấp cứu.

Tập ngậm ống bơi ngầm tiếp cận tàu, cảng địch còn vất vả khổ luyện hơn cả bơi hành quân. Một đầu ống thở ngậm vào miệng, một kẹp nhỏ kẹp mũi để nước không vào mũi. Một đầu ống thở thò trên mặt nước. Thở hoàn toàn bằng mồm. Mặt ngửa lên trời song song mặt nước. Toàn thân chìm dưới nước, tay khỏa nước giữ thăng bằng, chân đạp nước cho người tiến về phía trước. Những ngày đầu uống no nước biển mặn chát, về nhà không buồn ăn cơm. Chúng tôi tập tấn công chiếm lĩnh tàu địch, đưa tàu về căn cứ của ta...

Có kỷ niệm, hôm bơi hành quân dọc sông Chanh Vinh đã gặp lại Nguyễn Tiến Mạnh, Đường Vinh Sường tại phân đội 10 trường Sỹ quan Hải quân.  Sau này khi gặp mặt hội Tàu không số Hà Nội, Vinh đã gặp lại Nguyễn Thịnh báo vụ tàu 662  là con tàu đã phục vụ đội 1 đoàn 126, cấp cứu các chiến sỹ bị ngất...

Kết thúc khóa huấn luyện Vinh trở về đoàn 125 tiếp tục những chuyến chở hàng vào Nam ra Bắc.

Tháng 1 năm 1975 Vinh lại được  điều động về đoàn 971 là đoàn tàu gỗ, hai đáy, căn cứ tại đảo Vạn Hoa Quảng Ninh. Tàu gỗ 2 đáy được thiết kế 2 đáy, đáy phía dưới chở vũ khí đạn dược, đáy phía trên là hàng thông thường, phủ lưới và ngư cụ. Phương thức hoạt động là hợp pháp. Thủy thủ ăn mặc như dân đi biển miền Nam, mang căn cước miền Nam, tàu đeo biển số miền Nam.  Tàu trà trộn vào tàu đánh cá, tàu hàng của dân biển miền Nam để đưa hàng vào chi viện cho chiến trường.

Ngày 30/4/1975, miền Nam hoàn toàn giải phóng, non sông liền một giải. Lính sinh viên trở lại trường tiếp tục học tập. Phạm Trọng Vinh vẫn ở hòn đảo xa xôi vùng Đông Bắc mà không biết các bạn đã trở về trường.

Tháng 10/1975 Vinh và một thợ máy, một thủy thủ lái tàu 2 đáy về cảng K20 gần Bến Bính Hải Phòng nhận hàng. Vinh Khi đó mới biết tin lính sinh viên đã quay về trường học tiếp. Vinh lên trung đoàn bộ gặp anh Sửu quân lực hỏi tình hình. Mấy ngày sau Vinh khoác ba lô bịn rịn chào tàu, chào cảng, chia tay đồng đội về Hà Nội học tập tiếp.

Ra trường Vinh ở lại làm giảng viên dạy môn Tài chính kế toán của trường ĐH.KTQD. Năm 1988 Vinh chuyển sang công ty Xuất nhập khẩu thủy sản Hà Nôi( Seaprodex Hà Nội) giữ chức kế toán trưởng rồi Phó tổng giám đốc cho đến ngày về hưu.

Vinh sống hạnh phúc với vợ và hai con, một trai một gái. Cháu trai lập nghiệp tại Mỹ.

Với lính sinh viên chúng tôi, Phạm Trọng Vinh là con người đương đầu với nhiều gian khổ, nguy hiểm sống còn nhất. Chúc bạn và gia đình khỏe mạnh, hạnh phúc.

Trái Tim Người Lính

Bạn đang đọc bài viết "Đời lính thủy sôi sục của Phạm Trong Vinh: Thủy thủ đoàn tàu không số" tại chuyên mục Văn hóa - Xã hội. | Hotline: 08.4646.0404 | Email: toasoan@vanhoavaphattrien.vn